Tập tính và hành vi Công lam Ấn Độ

Chim công vẫn có khả năng xòe cánh bay lượn

Chim công trống được biết đến với màn phô bày xòe đuôi, mặc dù lông thực sự mọc lên từ phía lưng, được xem như một cái đuôi. "Chuỗi đốm hình mắt" trên thực tế tô điểm mặt trên từng chiếc lông đuôi thon dài to lớn. Đuôi công mái nâu và ngắn. Màu sắc không là kết quả của sắc tố xanh lục hoặc xanh lam mà từ những vi cấu trúc của lông và hiện tượng quang dẫn.[24] Lông dài đính chuỗi (và cựa cổ chân) ở chim trống chỉ phát triển sau năm tuổi thứ hai. Chuỗi đốm phát triển đầy đủ được tìm thấy khi chim lớn hơn 4 năm tuổi. Miền Bắc Ấn Độ, chuỗi bắt đầu phát triển mỗi tháng 2 và thay lông vào cuối tháng 8.[25] Thay lông bay có thể trải ra suốt năm.[26]

Chim công kiếm ăn trên mặt đất theo các nhóm nhỏ, được gọi là các tập hợp, mà thường là một con trống và 3-5 con mái. Sau mùa sinh sản, những đàn có xu hướng hình thành chỉ có chim mái và đàn chim non. Chúng được tìm thấy vào thời điểm sáng sớm và có xu hướng nấp dưới bụi rậm tránh nắng nóng trong ngày. Chim thích rỉa lông phủi bụi và vào lúc hoàng hôn, đàn chim bước đi theo hàng đơn đến một vũng nước yêu thích để uống. Khi bị quấy rầy, chim công thường trốn bằng cách chạy, hiếm khi bay.[12]

Chim công hót tiếng lớn đặc biệt trong mùa giao phối. Chim có thể gọi nhau trong đêm tối khi báo động và chim hàng xóm có thể hót tiếp âm giống như 1 loạt. Gần bảy dạng tiếng hót khác nhau đã được xác định ở công trống ngoài sáu tiếng kêu báo động thường được phát ra từ cả trống lẫn mái.[27]

Chim công đậu ngủ theo đàn suốt đêm trên cây cao nhưng cũng có khi đậu trên đá, công trình xây dựng hoặc cột cao. Trong rừng Gir, chim chọn những cây cao cạnh bờ sông dốc.[28][29] Chim đến vào lúc hoàng hôn và thường xuyên hót trước khi đậu lên cây ngủ [30] Do tập tính tụ họp trên cây ngủ, nhiều nghiên cứu quần thể được thực hiện tại các vị trí này. Cấu trúc quần thể chưa được hiểu rõ. Trong một nghiên cứu ở miền bắc Ấn Độ (Jodhpur), số lượng chim trống khoảng 170-210 so với 100 chim mái nhưng một nghiên cứu liên quan đến số lượng ban đêm tại nơi đậu ngủ ở miền nam Ấn Độ (Injar) cho thấy một tỷ lệ gồm 47 chim trống so với 100 chim mái.[13]

Chọn lọc giới tính

Một con chim công đực xòe cánh

Màu sắc rực rỡ của công trống và sự tương phản với công mái màu nhạt hơn là một câu đố đành cho giới nghiên cứu. Charles Darwin viết cho Asa Gray rằng "nhìn vào một chiếc lông của đuôi chim công, bất cứ khi nào tôi nhìn vào nó, khiến tôi bị bệnh!" cũng như ông không thấy một lợi thế hữu hiệu của chiếc đuôi xòe đó, dường như chỉ là một gánh nặng. Darwin đã phát triển một nguyên tắc thứ hai của chọn lọc giới tính để giải quyết các vấn đề, mặc dù trong xu hướng trí tuệ thời điểm đó của Anh thời Victoria, lý thuyết này đã không đạt được sự chú ý rộng rãi.[31]

Họa sĩ người Mỹ Abbott Handerson Thayer đã cố gắng hiển thị, từ trí tưởng tượng của mình, giá trị của các đốm mắt như sự ngụy trang phá vỡ trong một bức tranh năm 1907.[32] Ông đã sử dụng bức tranh trong cuốn sách của ông năm 1909 Concealing-Coloration in the Animal Kingdom, phủ nhận khả năng chọn lọc giới tính và tranh cãi rằng về bản chất tất cả các hình thức màu sắc động vật đã tiến hóa như ngụy trang.[33] Ông đã úp mở chỉ trích trong một bài báo dài của Theodore Roosevelt, người đã viết rằng Thayer chỉ quản lý để vẽ bộ lông của con công nhằm ngụy trang bằng trò ảo thuật của bàn tay, "với bầu trời xanh hiện ra thông qua chiếc lá chỉ đủ số ở đây và chứng nhận tác giả-nghệ sĩ giải thích rằng màu lam tuyệt vời của cổ chim công tẩy xóa vì họ làm cho nó nhạt dần vào bầu trời."[34]

Trong những năm 1970, một giải pháp có thể làm rõ những mâu thuẫn giữa chọn lọc tự nhiên và chọn lọc giới tính đã được đề xuất. Amotz Zahavi lập luận rằng công trống báo hiệu thẳng thắn sự bất lợi của chuỗi đốm hình mắt rộng lớn và quý giá. Tuy nhiên, thuyết cơ giới này có thể ít đơn giản hơn, có vẻ như - sự lộng lẫy phát sinh từ sự suy giảm của hệ miễn dịch bởi hormones tăng cường phát triển lông.[35][36]

Chuỗi đốm mắt trang trí công phu được cho là kết quả sự lựa chọn bạn tình của chim mái. Chim trống sử dụng chuỗi đốm lộng lẫy trong một màn xòe đuôi tán tỉnh: chim nâng bộ lông lên tạo thành một chiếc quạt lớn và rung lắc chúng. Song, các nghiên cứu gần đây đã không tìm thấy một mối quan hệ giữa số lượng đốm mắt hiển thị và thành công khi giao phối.[37] Marion Petrie kiểm tra có hay không những hiển thị tín hiệu chất lượng di truyền của chim trống bằng cách nghiên cứu một quần thể hoang dã chim công ở Công viên hoang dã Whipsnade tại miền Nam nước Anh. Bà đã cho thấy rằng số lượng đốm mắt trên chuỗi dự đoán khả năng giao phối thành công của chim trống, và thành công này có thể được thao tác bằng cách cắt giảm đốm mắt ra thành một số nhánh lông vũ lộng lẫy của chim.[38]

Mặc dù việc loại bỏ các đốm mắt làm cho chim trống ít thành công trong giao phối,[38] loại bỏ đốm mắt thay đổi đáng kể diện mạo của công trống. Có khả năng làm chim mái lầm tưởng những con trống chưa trưởng thành, hoặc cảm nhận rằng thể chất con trống đó bị hỏng. Hơn nữa, trong một quần thể công hoang, có rất ít sự thay đổi về số lượng đốm mắt ở chim trống trưởng thành. Hiếm khi đối với chim trống lớn mất đi một số lượng đáng kể các đốm mắt. Vì vậy, chim mái lựa chọn có thể phụ thuộc vào đặc điểm giới tính khác của chuỗi đốm mắt chim trống. Chất lượng chuỗi đốm là một tín hiệu thẳng thắng về tình trạng của công trống; công mái chọn trống trên cơ sở bộ lông của con trống đó. Một nghiên cứu gần đây trên một quần thể tự nhiên tại khu vực Shivalik của Ấn Độ đã đề xuất một thuyết "tình trạng bất lợi cao". Nó cho rằng chỉ có con trông khỏe mạnh mới đủ thời gian và năng lượng để duy trì bộ đuôi dài. Do đó, chuỗi đốm dài là một chỉ số thể trạng tốt, đó là kết quả khi thành công giao phối nhiều hơn.[39] Trong khi chiều dài chuỗi đốm dường như tương quan tích cực với MHC đa dạng ở con trống, chim mái không xuất hiện việc dùng chiều dài chuỗi đốm để chọn con trống.[40]

Một nghiên cứu tại Nhật Bản cũng cho thấy rằng chim mái không chọn công trống dựa trên bộ lông có tính trang trí, bao gồm cả chiều dài chuỗi đốm, số đốm mắt và chuỗi đối xứng.[41] Một nghiên cứu khác ở Pháp có hai cách giải thích cho kết quả trái ngược nhau tồn tại. Những lời giải thích đầu tiên có thể là một biến thể di truyền của tính trạng trội theo khu vực địa lý khác nhau do một hiệu ứng sáng lập và/hoặc một gen trôi dạt. Lời giải thích thứ hai cho thấy rằng "biểu hiện sự trang hoàng tiêu điểm có thể thay đổi theo điều kiện môi trường", vì vậy đặc điểm đó là biểu hiện của một tính chất đặc biệt có thể không hoạt động trong môi trường khác.[38]

Cơ chế chạy trốn của Fisher đề xuất phản hồi xác thực giữa chim mái ưa thích chuỗi đốm lộng lẫy và chuỗi đốm lộng lẫy của chính nó. Mô hình này giả định rằng chuỗi đốm công trống là một sự thích nghi tiến hóa tương đối gần đây. Tuy nhiên, một nghiên cứu phát sinh phân tử loài trên gà tiền cho biết điều ngược lại; loài tiến hóa gần nhất thực sự là một loài trang hoàng ít nhất.[42] Phát hiện đề xuất một sự chọn lọc giới tính theo đuổi xa, theo đó "công mái phát ra sự kháng cự mánh khóe công trống".[43] Một nghiên cứu tại Nhật Bản đi vào kết luận rằng "chuỗi đốm mắt công trống là một tín hiệu teo đi mà theo đó công mái ưa thích bị mất đi hoặc suy yếu rồi".[41]

Tuy nhiên, vài bất đồng đã nảy sinh trong những năm gần đây liên quan đến có hoặc không việc công mái thật sự không chọn chim trống dựa vào những chuỗi đốm bắt mắt. Trái ngược phát hiện của Petrie, một nghiên cứu tại Nhật Bản bảy năm đi đến kết luận rằng chim mái không chọn bạn tình chỉ trên cơ sở chuỗi đốm của chim trống. Mariko Takahashi không tìm thấy bằng chứng cho thấy công mái bày tỏ bất kỳ ưu ái nào cho công trống có chuỗi đốm phức tạp hơn (như chuỗi có nhiều ocelli), một cách sắp xếp đối xứng hơn, hoặc có chiều dài lớn hơn.[44] Takahashi xác định rằng chuỗi đốm chim trống không phải là mục tiêu phổ thông của con mái lựa chọn bạn đời, cho thấy sự mâu thuẫn không đáng kể ở quần thể chim trống, và, dựa trên dữ liệu thu thập được từ sinh lý nhóm chim trống, không tương quan với điều kiện thể chất chim trống. Adeline Loyau và đồng nghiệp đã phản hồi nghiên cứu của Takahashi dính líu đến cách giải thích thay thế cho những kết quả bị bỏ qua, và đó có thể là điều cần thiết cho sự hiểu biết về độ phức tạp trong cách lựa chọn bạn đời.[45] Họ kết luận rằng lựa chọn của chim mái có thể thực sự thay đổi trong điều kiện sinh thái khác nhau.

Một nghiên cứu năm 2013 theo dõi những chuyển động mắt của chim mái đáp ứng với màn xòe đuôi chim trống cho thấy chúng nhìn theo hướng của chuỗi đốm phía trên chiếc lông chỉ khi ở khoảng cách xa và chúng chỉ nhìn vào những chiếc lông thấp hơn khi con trống xòe đuôi gần chúng. Xòe đuôi và vỗ cánh thu hút sự chú ý của chim công mái.[46]

Sinh sản

Tán tỉnhTrứng chim, sưu tập tại Viện bảo tàng WiesbadenCông mái và công non

Chim công trống có tính đa thê, mùa sinh sản được trải ra nhưng dường như phụ thuộc vào những cơn mưa. Chim công thường động dục từ 2-3 tuổi.[47] Một số con trống có thể tụ tập tại theo địa điểm mô hình Lek và chim trống thường có liên hệ chặt chẽ lẫn nhau.[48] Công trống tại điểm xuất hiện Lek để duy trì vùng lãnh thổ nhỏ cạnh nhau, cho phép công mái tiến vào và không cố bảo vệ hậu cung. Công mái không xuất hiện tính ưu ái công trống cụ thể.[49] Chim trống thể hiển sự tán tỉnh bằng cách xòe lông đuôi thành một cánh quạt hình cung. Đôi cánh nửa mở, rũ xuống và vỗ những sợi lông dài theo kỳ phát ra âm thanh rền nhẹ. Con trống đối mặt với con mái ban đầu, oai vệ, nhảy đựng lên xung quanh và đôi khi xoay vòng quanh múa đuôi.[12] Chim trống cũng có thể làm lạnh thức ăn để mời một con mái theo kiểu tán tỉnh ăn uống.[50] Chim trống thể hiển ngay cả trong trường hợp không có con mái. Khi một con trống đang xòe đuôi, công mái không cho thấy có bất cứ chú ý nào và thường tiếp tục kiếm ăn.[13] Mùa cao điểm ở miền nam Ấn Độ là tháng 4 đến tháng 5, tháng 1 đến tháng 3 ở Sri Lanka và tháng 6 ở miền bắc Ấn Độ. Chiếc tổ là một chỗ đào bới nông trên mặt đất lót bằng lá cây, que củi và các mảnh vụn khác. Tổ chim đôi khi được đặt trên các tòa nhà[51] và trước đó đã từng ghi nhận chim công sử dụng tổ bỏ hoang của kền kền Bengal. Ổ trứng gồm 4-8 quả màu trắng vàng được chim mái ủ. Trứng mất khoảng 28 ngày để nở. Chim non rời khỏi tổ và theo chim mẹ sau khi nở.[9] Chim non tơ đôi khi có thể leo lên lưng chim mái và chim cái có thể mang chúng khi bay tới nhánh cây an toàn.[52] Một trường hợp khác thường mà công trống ấp một ổ trứng cũng được báo cáo.[12][53]

Khẩu phần

Chim công là loài ăn tạp. Công ăn hạt, côn trùng, hoa quả, động vật có vú và bò sát nhỏ. Chúng ăn một số loài rắn nhỏ nhưng giữ khoảng cách với những loài lớn.[54] Trong khu rừng Gir của Gujarat, một tỷ lệ lớn thức ăn là quả mọng rụng thuộc loài táo Ziziphus .[55] Khu vực quanh đất trồng trọt, chim công kiếm ăn trên phạm vi rộng các loại cây trồng như lạc, cà chua, thóc lúa, ớt và thậm chí cả chuối.[13] Quanh nơi ở con người, chúng ăn nhiều loại thức ăn thừa hay thậm chí cả phân người.[12] Ở nông thôn, chúng là một phần đặc biệt với cây trồng và cây vườn.

Kẻ thù

Chim công trưởng thành thường có khả năng thoát khỏi kẻ thù mặt đất bằng cách bay lên cây. Động vật lớn như báo hoa mai, sói đỏhổ đôi khi phục kích chim ngẫu nhiên. Trong vài khu vực như rừng Gir, chim công là con mồi khá phổ biến cho động vật săn mồi đáng gờm như thế.[29][56][57] Kiếm ăn theo bầy đàn đem đến vài sự an toàn ví dụ có nhiều cặp mắt phát hiện kẻ thù.[58] Chim công cũng đôi khi bị săn bởi những loài chim săn mồi lớn như diều đầu nâudù dì Bengal.[59][60] Chim non phần nào dễ bị ăn thịt hơn chim trưởng thành. Chim lớn sống gần nơi ở con người đôi khi cũng bị săn đuổi bởi chó nhà hoặc bởi con người trong vài khu vực (miền nam Tamil Nadu) dùng cho phương thuốc dân gian đòi hỏi phải sử dụng "dầu chim công".[13]

Trong điều kiện nuôi nhốt, chim công có khả năng sống đến 23 năm nhưng ước tính rằng chim công chỉ sống được khoảng 15 năm trong tự nhiên.[61]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Công lam Ấn Độ http://www.dunedingov.com/docs/leisureservices/liv... http://books.google.com/books?id=64ogBAAAQBAJ&pg=P... http://books.google.com/books?id=wuotb7YyrigC http://ibc.lynxeds.com/species/indian-peafowl-pavo... http://www.rollinghillswildlife.com/animals/p/peaf... http://www.nbb.cornell.edu/neurobio/BioNB427/READI... http://si-pddr.si.edu/dspace/bitstream/10088/1193/... http://sora.unm.edu/sites/default/files/journals/a... http://sora.unm.edu/sites/default/files/journals/c... //www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/18700500